Hưng Đạo vương Trần Quốc TuấnTrần Quốc Tuấn (1228 - 1300) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc ḷng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông c̣n là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng c̣n lưu truyền đến ngày nay. Sau khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương, lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh (Hải Dương). Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lư trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đă xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh c̣n nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lư Chiêu Hoàng. Bà là vị vua cuối cùng của ḍng họ Lư, v́ nhường ngôi cho chồng nên tôn thất nhà Lư dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi ḷng thù hận của Liễu. V́ thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai ḿnh thành bậc văn vơ toàn tài, kư thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Thuở nhỏ, có người đă phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn vơ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho ḿnh. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn nên thù nhà không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xă tắc. Ông đă biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đă giao hảo ḥa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự ḥa hợp của hai người chính là sự thống nhất ư chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hăn. Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền ḿnh tṛ chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự ḿnh tắm rửa cho Quang Khải... Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong ḍng họ ḍ ư các con, Trần Quốc Tảng có ư khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nh́n mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua nên sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lư, chú ư từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên ḷng quan để yên ḷng dân, đoàn kết mọi người v́ nghĩa lớn dân tộc. TRần Quốc Tuấn trọn đời trung trinh son sắt v́ vua, v́ nước. Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài, các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lăo, Yết Kiêu, Dă Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng. Trần Quốc Tuấn đă soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đă hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rơ ư định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút". Là tướng nhân, Trần Quốc Tuấn thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, trận Bạch Đằng oanh liệt ngh́n đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông th́ sẽ được ǵ, trái lời ông th́ sẽ bị ǵ. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên - Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi: - Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn th́ kế sách làm sao? Ông đă trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại “Thời b́nh phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tư, Hưng Long thứ 8 (1300) "B́nh Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào b́nh đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ... Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam. Hà Ân - Trần Quốc Vượng |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Hịch tướng sĩFrom WikisourceDụ chư tỳ tướng hịch văn, thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của Trần Hưng Đạo Xin xem vi:Hịch tướng sĩ. Dưới đây là nguyên bản và phiên-âm của Ngô Tất Tố trong “Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần” Nxb Đại Nam, Sàig̣n, 1960 Nguyên bản tiếng Hán và phiên âm Hán Việt
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe: Kỷ Tín (1) đem ḿnh chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu (2) ch́a lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương. Dự Nhượng (3) nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay cứu nạn cho nước. Kinh Đức (5) một chàng tuổi trẻ, thân pḥ Thái Tông thoát khỏi ṿng vây Thế Sung; Cảo Khanh (6) một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ ḿnh v́ nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường t́nh th́ cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được? Các ngươi vốn ḍng vơ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên (7) là người thế nào? Nguyễn Văn Lập tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư (8) lớn tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha (9) đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống, đến nay c̣n đội ơn sâu! Cốt - đăi - ngột - lang (10) là người thế nào? Xích - tu - tư (11) tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm, đánh quỵ quân Nam Chiếu (12) trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay c̣n lưu tiếng tốt! Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nh́n sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đ́nh; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. ỷ mệnh Hốt Tất Liệt (13) mà đ̣i ngọc lụa, để phụng sự ḷng tham không cùng; khoác hiệu Vân Nam vương (14) mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau. Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đ́a; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, ngh́n thây ta bọc trong da ngựa (15), cũng nguyện xin làm. Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc th́ ta cho áo; không có ăn th́ ta cho cơm. Quan thấp th́ ta thăng tước; lộc ít th́ ta cấp lương. Đi thủy th́ ta cho thuyền; đi bộ th́ ta cho ngựa. Lâm trận mạc th́ cùng nhau sống chết; được nhàn hạ th́ cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đăi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đăi người phụ tá nào có kém ǵ? Nay các ngươi ngồi nh́n chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đ́nh đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường (16) đăi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đ́nh; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa ḷng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham tṛ săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang th́ cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích ǵ cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp (17) của ta không c̣n mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xă tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu c̣n lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng? Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" (18) làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" (19) làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông (20), mọi người đều tài như Hậu Nghệ (21), có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai (22). Như thế chẳng những thái ấp của ta măi măi vững bền (23) mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói ngh́n thu mà tổ tiên các ngươi cũng bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau c̣n để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không? Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, th́ trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo th́ trọn đời là nghịch thù. V́ sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc (24), để thẹn muôn đời, há c̣n mặt mũi nào đứng trong cơi trời che đất chở này nữa? Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rơ bụng ta. Huệ Chi (Dịch lại trên cơ sở các bản dịch cũ) (25) --------------------- Chú thích: (1) Kỷ Tín: một tướng của Hán Cao Tổ. Khi Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương. Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ đó trốn thoát. (2) Do Vu: Tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân thu. Theo Tả truyện Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Đông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đă ch́a lưng ra che chở cho vua ḿnh. (3) Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết chết. Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ. (4) Thân Khoái: viên quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ. (5) Kinh Đức: tức Uất Tŕ Cung đời Đường. Khi Đường Thái Tông (bấy giờ c̣n là Tần Vương) bị Vương Thế Sung vây, ông đă lấy ḿnh che chở, hộ vệ cho vua chạy thoát. (6) Cảo Khanh: họ Nhan, bề tôi của nhà Đường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông ông đă chửi mắng Lộc Sơn và bị cắt lưỡi. (7) Vương Công Kiên: tức Vương Kiên tướng nhà Tống, giữ Hợp Châu (Tứ Xuyên), đă huy động quân dân chiến đấu ở núi Điếu Ngư cầm cự với đạo quân Mông - Cổ do Môngke (Mongka, phiên âm Hán Việt là Mông Kha) chỉ huy, trong 4 tháng trời. Đến khi Môngke chết, quân Mông Cổ đành phải rút. (8) Điếu Ngư: tên một trái núi rất hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nh́n xuống sông. Đời Tống, Dư Giới có đắp thành ở đó. (9) Mông Kha: tức Môngke (Mongka) là anh của Hốt Tất Liệt (Qubilai), làm Đại hăn (Chúa tể) Mông Cổ từ năm 1251, từng trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước ở phía Đông. Chính y bị tử trận ở thành Điếu Ngư trong cuộc vây hăm đội quân nhà Tống do Vương Công Kiên chỉ huy. (10) (12) Cốt - đăi - ngột - lang: tức Uryangkhađai (Uriyangqadai), là một tướng giỏi của Môngke con viên tướng nổi tiếng Nubutai (Subutai). Uryangkhađai từng nhận lệnh Môngke, cùng với Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam - chiếu, một nước ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ xuyên và Vân Nam thủ đô Đại - lư (Vân Nam). Uryangkhaiđai cũng chính là viên tướng chỉ huy đạo quân xâm lược Việt Nam lần thứ nhất (1258). (11) Xích-tu-tư: Xem Khảo đính 3. (13) Hốt Tất Liệt: tức Khubilai (Qubilai), em ruột và là tướng của Môngke. Sau khi Môngke chết (1259), Hốt Tất Liệt đă tự xưng làm Đại hăn ở Khai B́nh, tổ chức cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Aric Bukê (AriqBuka). Năm 1264, Aric Bukê đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh, tức Bắc Kinh ngày nay và đến năm 1271 th́ đặt quốc hiệu là Nguyên. Hốt Tất Liệt chính là Nguyên Thế Tổ. (14) Vân Nam vương: tức Hughêtư (Hugaci) con Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam vương năm 1267, đóng quân ở Vân Nam với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như làm áp lực quân sự đối với nước ta lúc bấy giờ. (15) Ngh́n thây ta bọc trong da ngựa: lấy ư ở câu nói của Mă Viện đời Hán (trong Hậu Hán thư) Đại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mă cách khỏa thi nhĩ. Nghĩa là: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây. (16) Nhạc thái thường: nhạc của triều đ́nh dùng trong những tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao giữa ta và quân Nguyên, trong những tiệc yến tiếp sứ giặc, triều đ́nh phải dùng đến nhạc thái thường để giúp vui. Trần Quốc Tuấn coi đó là một điều nhục nhă. (17) Thái ấp: phần đất vua phong cho các vương hầu. (18) Đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ (thố hỏa tích tàn), lấy từ một câu văn của Hán thư. Phù băo hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng; hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an, nghĩa là: "ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên". (19) Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội (trừng canh xuy tê): xuất xứ từ một câu văn của Sở từ Trừng ư canh nhi xuy tè hề: ư nói: người bị bỏng v́ canh nóng, trong ḷng e sợ, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng lấy miệng thổi. (20) (21) Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc. (22) Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua "chư hầu" khi vào chầu vua Hán ở Trường An. (23) Măi măi vững bền: dịch thoát câu vĩnh vi thanh chiên: Sách Thế thuyết chép rằng: Vương Tử Kính đêm nằm ngủ ở trai pḥng thấy một bọn trộm lẻn vào nhà, trộm hết mọi vật. Ông từ tốn nói với chúng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi đừng lấy. Tác giả mượn điển này để nói bóng về những của cải lưu truyền từ đời nọ đến đời kia. (24) Nguyên văn là B́nh lỗ chi hậu. Bản dịch của Trần Trọng Kim cũng như bản chú thích của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển, 1942, đều cho B́nh Lỗ là tên đất. Bùi Văn Nguyên cũng ức đoán B́nh Lỗ tức là vùng Phù Lỗ thuộc thị trấn Kim Anh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay. Nhưng chúng tôi tán thành cách dịch của Ngô Tất Tố, Phan Kế Bính... coi đây là một từ chỉ việc b́nh định giặc nói chung. (25) Bản dịch này có tham khảo và chọn lọc câu chữ ở các bài dịch trong quá khứ của Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược), Ngô Tất Tố (Văn học đời Trần, 1940), Nguyễn Đổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử, 1941), Chu Thiên (Chống quân Nguyên, 1957), Bùi Văn Nguyên (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, 1962), Cao Huy Giu (Bd, ĐVSKTT, 1967), Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tàm (Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông, 1967). |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||